Quy định của pháp luật về tranh chấp, phân chia di sản thừa kế
14:56 - 04/12/2021
Tranh chấp về thừa kế là quan hệ tranh chấp tương đối phổ biến trong pháp luật dân sự, đặc biệt là các tranh chấp liên quan đến việc phân chia di sản thừa kế vì liên quan trực tiếp đến lợi ích giữa những người có quyền thừa hưởng di sản.
Quá trình giải quyết tranh chấp di sản thừa kế cũng tương đối phức tạp và nhạy cảm do các bên tranh chấp thường có mối quan hệ huyết thống, thân thuộc. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam cũng đã có những quy định cơ bản và chi tiết về quan hệ tranh chấp này.

Ảnh minh họa.
Trong quan hệ tranh chấp về di sản thừa kế, để khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế, trước hết cần xác định những ai có quyền hưởng di sản thừa kế. Theo quy định, có hai hình thức thừa kế là: Thừa kế theo di chúc, và thừa kế theo pháp luật.
Về thừa kế theo di chúc, người có quyền thừa kế theo di chúc là người được chỉ định trong di chúc để nhận phần di sản do người chết để lại.
Trường hợp thừa kế theo pháp luật, “hàng thừa kế” là cơ sở để xác định người có quyền thừa hưởng di sản do người chết để lại.
Theo quy định tại Điều 651 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự như sau:
“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
Pháp luật Việt Nam cũng quy định rõ: Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
Đồng thời, những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thừa kế, theo quy định tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 thì tranh chấp về thừa kế tài sản là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Căn cứ quy định tại Điều 35, 38 của Bộ luật này thì những tranh chấp về thừa kế thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Nhân dân (TAND) cấp huyện, trừ trường hợp đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài thì tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh.
Riêng đối với những tranh chấp liên quan đến việc phân chia di sản thừa kế là bất động sản, thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp di sản thừa kế là động sản thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Các bên cũng có thể thỏa thuận bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi nguyên đơn cư trú, làm việc giải quyết tranh chấp.
Thời hiệu khởi kiện tranh chấp tài sản thừa kế cũng được quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể thừ thời hiệu mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Pháp luật cũng quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết (Điều 611 BLDS năm 2015).
Gia Hải
https://www.phapluatplus.vn/phap-luat-plus/quy-dinh-cua-phap-luat-ve-tranh-chap-phan-chia-di-san-thua-ke-d172099.html